Cải cách thủ tục hành chính về quản lý, giám sát hải quan với hàng hóa tại cảng

Nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và đảm bảo quản lý nhà nước, Tổng cục Hải quan (TCHQ) đã tích cực triển khai Điều 41 Luật Hải quan năm 2014 về việc giao cho doanh nghiệp kinh doanh (DNKD) cảng kiểm soát và tự chịu trách nhiệm cho hàng hóa xuất nhập khẩu qua cửa khẩu, trên cơ sở thông tin tờ khai đủ điều kiện qua cửa khẩu chuyển cho DNKD cảng.

Cụ thể, TCHQ đã ban hành Quyết định số 2495/QĐ-TCHQ ngày 24/8/2015 về Quy trình thí điểm thực hiện giám sát hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đưa vào, lưu giữ, đưa ra khu vực giám sát hải quan (KVGS HQ) tại cảng Nam Hải Đình Vũ và áp dụng mở rộng tại cảng Xanh VIP thuộc quản lý của Cục HQ TP Hải Phòng.

Quyết định 2495/QĐ-TCHQ nhằm cụ thể hóa mô hình kết nối hệ thống công nghệ thông tin (CNTT) giữa cơ quan Hải quan và DNKD cảng để đảm bảo thực hiện đúng quy định của Điều 41 Luật Hải quan 2014. Theo đó, để tăng tính tự động hóa và kiểm soát theo thời gian thực, việc kết nối, trao đổi dữ liệu về tờ khai hải quan và điều kiện container qua khỏi cửa khẩu được đặt ra áp dụng trong phạm vi kiểm soát container với mục tiêu phần mềm Hải quan cung cấp thông tin tờ khai của các container cùng điều kiện qua khỏi cửa khẩu cho phần mềm của DNKD cảng, để DNKD cảng có căn cứ thực hiện các quy trình tiếp theo khi cho phép hàng hóa đủ điều kiện xuất nhập khẩu qua khu vực cửa khẩu.

Qua quá trình thực hiện cho thấy những kết quả bước đầu khả quan, đem lại lợi ích đối với cả cơ quan hải quan và doanh nghiệp.

Đối với công tác quản lý nhà nước về hải quan:

– Việc kết nối hệ thống CNTT giữa cơ quan Hải quan và DNKD cảng nhằm thực hiện đúng quy định của Luật Hải quan 2014 về quy định trách nhiệm của DN kinh doanh cảng, kho, bãi trong hoạt động giám sát hải quan.

– Giúp cho cơ quan Hải quan kịp thời nắm bắt thời điểm lô hàng hay container ra vào cảng, số lượng hàng, container tồn trong cảng đối với từng con tàu, những lô hàng quá hạn làm thủ tục hải quan hay vị trí cụ thể của từng container… từ đó đưa ra các quyết định xử lý phù hợp.

– Công tác quản lý rủi ro, kiểm soát chống buôn lậu, giám sát hải quan được được thực hiện hiệu quả hơn do có đầy đủ thông tin về vị trí container hạ bãi, số chuyến và tên tàu, đồng thời giúp tăng cường tính tuân thủ của hoạt động XNK.

– Giảm thời gian giải quyết thủ tục thông quan lô hàng xuất nhập khẩu đủ điều kiện qua khu vực giám sát. Theo đánh giá của Cục Hải quan TP. Hải Phòng thì thời gian thông quan đối với một tờ khai tại khu vực giám sát hải quan được giảm từ 3-5 phút. Cũng theo số liệu báo cáo số liệu của Cục HQ TP Hải Phòng, trong thời gian ngắn triển khai (từ ngày 22/9/2015 đến hết 15/10/2015) đã có tổng số 8.802 tờ khai nhập khẩu, 118 tờ khai tờ khai vận chuyển độc lập, 16 tờ khai giấy, 1.032 DN XNK và số lượng container do DNKD cảng áp dụng theo mô hình nêu trên để cho phép đưa ra KVGS hải quan là 9.195 cont, số lượng container phải niêm phong hải quan là 2.929 cont.

Đối với doanh nghiệp XNK:

– Do thực hiện kết nối, trao đổi dữ liệu tờ khai, lô hàng đủ điều kiện qua KVGS hải quan theo phương thức điện tử giữa DNKD cảng và cơ quan Hải quan khi giải quyết thủ tục hải quan cũng đã giảm thời gian làm thủ tục hải quan so với trước khi triển khai hệ thống, cụ thể là:

+ Đối với hàng hóa XK, NK không phải niêm phong hải quan và đủ điều kiện qua khu vực giám sát hải quan, người khai hải quan hoặc người vận chuyển không phải cung cấp thông tin số tờ khai hải quan, danh sách cont theo mẫu 29/DSCT/GSQL hoặc danh sách hàng hóa theo mẫu 30/DSHH/GSQL (ban hành kèm theo Phụ lục V Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25/03/2015 của Bộ Tài chính) cho DNKD cảng, kho, bãi.

Sau khi hoàn thành thủ tục hải quan, người khai hải quan hoặc người vận chuyển chỉ cần thông báo danh sách container hoặc danh sách hàng hóa đủ điều kiện qua khu vực giám sát hải quan cho DNDK cảng, kho, bãi và làm thủ tục trực tiếp với DNKD cảng, kho, bãi để xếp hàng lên phương tiện vận tải xuất khẩu (đối với hàng xuất khẩu) hoặc đưa hàng ra khu vực giám sát hải quan (đối với hàng nhập khẩu).

+ Đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải niêm phong hải quan và đủ điều kiện qua khu vực giám sát hải quan, sau khi cơ quan hải quan kiểm tra, xác nhận tình trạng niêm phong hải quan, người khai hải quan hoặc người vận chuyển cũng thực hiện thủ tục đưa hàng qua khu vực giám sát tương tự như trên.

Như vậy, đối với hàng hóa đủ điều kiện qua khu vực giám sát hải quan, người khai hải quan không phải thực hiện các thủ tục tại văn phòng giám sát  như trước đây và cũng không phải xuất trình các chứng từ không cần thiết khi đã áp dụng hệ thống CNTT (nếu phải xuất trình thì trung bình mất một khoảng thời gian để xác nhận là 05 phút/1 tờ khai) nên đã giảm được thủ tục hành chính, đồng thời giảm chi phí phát sinh cho DNXNK (chi phí đi lại, thời gian chờ để làm thủ tục).

– Ngoài ra, việc triển khai hệ thống đã làm tăng tính minh bạch trong quá trình làm thủ tục hải quan, nâng cao ý thức của người khai hải quan khi thực hiện khai báo thông tin liên quan đến container. Do hệ thống hải quan sẽ tự động kiểm tra tính phù hợp của số container do doanh nghiệp khai lên hệ thống Hải quan và Số container do doanh nghiệp cảng cung cấp khi hạ bãi.

Đối với doanh nghiệp kinh doanh cảng:

– Nâng cao uy tín, hiệu quả hoạt động kinh doanh, năng lực cạnh tranh.

– Tăng cường tính chủ động trong việc thực hiện Điều 41 Luật Hải quan, chủ động trong việc thực hiện chế độ quản lý, thống kê, lưu giữ chứng từ, sổ sách, cung cấp thông tin, số liệu hàng hóa đưa vào lưu giữ, đưa ra khỏi khu vực cảng, kho, bãi theo quy định của pháp luật và xuất trình, cung cấp cho cơ quan hải quan khi có yêu cầu.

– Đảm bảo DN cảng có đầy thông tin về tình trạng cấp phép thông quan (từ cơ quan Hải quan) đối với từng lô hàng, từng container để cho hàng ra vào cảng theo đúng quy định của pháp luật, tránh rủi ro so với thực hiện trao đổi bằng thủ tục giấy.

Kế hoạch mở rộng tại các cảng khác

Theo đánh giá của cơ quan Hải quan, hiện nay, một số DN KD cảng, kho, bãi tại khu vực cảng TP. Hải Phòng và TP. HCM đã sẵn sàng áp dụng triển khai mô hình nêu trên.

Trong thời gian tới, TCHQ sẽ khẩn trương hoàn thiện hệ thống CNTT và cơ sở pháp lý để mở rộng phạm vi thực hiện, đặc biệt tại các cảng biển có lưu lượng hàng hóa lớn để phát huy tối đa những thuận lợi đã mang lại.

Dự kiến đến khoảng tháng 03/2016 sẽ triển khai mở rộng tại các cảng biển khác trên cả nước.

© Copyright 2018 Vin Shipping Company Limited